Skip to main content

Cúp bóng đá châu Phi 1980 – Wikipedia tiếng Việt


Cúp bóng đá châu Phi 1980 là Cúp bóng đá châu Phi lần thứ 12, được tổ chức tại Nigeria. Số đội tham dự giải là 29, nhiều hơn giải trước đó 3 đội. Thể thức thi đấu không đổi. Vòng chung kết gồm 8 đội chia làm 2 bảng, mỗi bảng 4 đội. Hai đội tuyển đứng đầu mỗi bảng vào đá bán kết, đội thắng ở bán kết vào đá chung kết, đội thua dự trận trận tranh giải ba. Chủ nhà Nigeria lần đầu tiên giành chức vô địch. Còn Maroc trở thành đội đương kim vô địch thứ năm bị loại ngay từ vòng bảng (sau CHDC Congo là vào các năm 1970, 1976 cùng với Sudan 1972).





Vòng loại của giải gồm 27 đội tham gia, chọn lấy 6 đội cùng với đương kim vô địch Ghana và chủ nhà Nigeria tham dự vòng chung kết. Vòng loại thi đấu theo thể thức loại trực tiếp sân nhà và sân khách, có áp dụng luật bàn thắng sân khách. Ở vòng sơ loại có 6 đội chọn lấy 3 đội thắng vào vòng loại thứ nhất. Ở vòng loại thứ nhất 24 đội chia làm 12 cặp đấu, 12 đội thắng vào vòng loại thứ hai. Vòng loại thứ hai 12 đội chia làm 6 cặp đấu, 6 đội thắng dự vòng chung kết.


Các đội không vượt qua vòng loại[sửa | sửa mã nguồn]


Vòng sơ loại[sửa | sửa mã nguồn]


Vòng loại thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]


Vòng loại thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]


  • in nghiêng: Đội bóng bỏ cuộc





Vòng chung kết của giải diễn ra từ 8 tháng 3 đến 22 tháng 3 năm 1980. Các trận đấu ở bảng A được tổ chức tại thủ đô Lagos, ở bảng B được tổ chức tại Ibadan.


Bảng A[sửa | sửa mã nguồn]










































Đội tuyển
Số trận
Thắng
Hòa
Thua
Bàn
thắng
Bàn
thua
Hiệu
số
Điểm
 Nigeria
321041+35
 Ai Cập
320143+14
 Bờ Biển Ngà
302123−12
 Tanzania
301236−31











Bảng B[sửa | sửa mã nguồn]










































Đội tuyển
Số trận
Thắng
Hòa
Thua
Bàn
thắng
Bàn
thua
Hiệu
số
Điểm
 Algérie
321042+25
 Maroc
31112203
 Ghana
31111103
 Guinée
301235−21











Vòng đấu loại trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]


Bán kết[sửa | sửa mã nguồn]





Tranh giải ba[sửa | sửa mã nguồn]



Chung kết[sửa | sửa mã nguồn]



Vô địch Cúp bóng đá châu Phi 1980
Flag of Nigeria.svg
Nigeria
Lần thứ nhất


3 bàn

2 bàn

1 bàn




Comments

Popular posts from this blog

Đế chế Mali - Wikipedia

Đế chế Mali c. 1235 Chân1670 Phạm vi của Đế chế Mali (c. 1350) Thủ đô Niani; sau này Kangaba Các ngôn ngữ phổ biến Malinké, Mandinka, Fulani, Bozo Tôn giáo Tôn giáo truyền thống châu Phi, Hồi giáo Mansa (Hoàng đế) • 1235. 19659006] Mari Djata I (đầu tiên) • c. Thế kỷ 17 Mahmud IV (cuối cùng) Cơ quan lập pháp Gbara Thời đại lịch sử Thời đại hậu phân loại • Thành lập c. 1235 1559 c. 1610 1670 Diện tích 1250 [2] 100.000 km 2 (39.000 dặm vuông) 1312 1.294.994 km 2 (500.000 dặm vuông) 1380 [2] 1.100.000 km 2 19659033] 1500 [2] 400.000 km 2 (150.000 dặm vuông) Tiền tệ Bụi vàng (Muối, đồng và bò trong đế chế) Biểu tượng quốc gia: Falcon Động vật linh thiêng: Chim ưng và nhiều động vật khác theo từng gia tộc cai trị (Lion v.v.) [ cần trích dẫn ] Đế chế Mali (Bắt buộc: Nyeni [5] hoặc Niani trong lịch sử còn được gọi là Manden Kurufaba [1] Manden ) là một đế chế ire ở Tây Phi từ c. 1230 đến 1670. Đế chế được thành lập bởi

William Stuart-Houston - Wikipedia

William Patrick "Willy" Stuart-Houston ( né Hitler ; 12 tháng 3 năm 1911 - 14 tháng 7 năm 1987) là cháu trai Ailen-Đức của Adolf Hitler. Anh được sinh ra với anh trai cùng cha khác mẹ của Adolf, Alois Hitler, Jr và người vợ Ailen, Bridget Dowling, ở Liverpool, Anh. William Hitler sau đó chuyển đến Đức, nhưng sau đó di cư sang Hoa Kỳ, nơi ông phục vụ trong Hải quân Hoa Kỳ trong Thế chiến II. Cuối cùng anh đã nhận được quốc tịch Mỹ. Thời niên thiếu [ chỉnh sửa ] William Patrick Hitler sinh ra ở quận Toxteth Park của Liverpool, con trai của Alois Hitler, Jr. và Bridget Dowling. Cặp đôi đã gặp nhau ở Dublin khi Alois sống ở đó vào năm 1909; Năm 1910, họ kết hôn tại Marylebone ở London và chuyển về phía bắc tới Liverpool, nơi William Patrick sinh năm 1911. [1] [2] Gia đình sống trong một căn hộ tại 102 Upper Stanhope Street, nơi bị phá hủy trong cuộc không kích cuối cùng của Đức Liverpool Blitz vào ngày 10 tháng 1 năm 1942. Dowling đã viết một bản thảo có tên

Redeemer Lutheran College - Wikipedia

Redeemer Lutheran College Địa điểm Thông tin Loại Lutheran Motto 19659010] "Hy vọng của chúng tôi là ở Chúa Kitô" Thành lập 1980 Hiệu trưởng Tanya Crooks Ghi danh ~ 1108 [1] ] Rochedale Màu sắc Ba sắc thái của màu xanh, trắng và vàng Trang web www.redeemer.com .au Redeemer Lutheran College là một trường tiểu học và trung học Lutheran đồng giáo dục ở Rochedale, Brisbane, Queensland. Được thành lập vào năm 1980 [2] bởi Robin Kleinschmidt và những người Luther hàng đầu khác ở phía nam thành phố Brisbane, Trường hiện đang đào tạo sinh viên từ năm Prep đến 12. Hiệu trưởng hiện tại là bà Tanya Crooks, người thay thế ông David Radke, người thay thế ông David Radke, người thay thế ông giữ vị trí này từ 2009-2016. Địa điểm và căn cứ [ chỉnh sửa ] Người chuộc lỗi được đặt tại Thành phố Brisbane trong môi trường bán nông thôn. Trường đáng chú ý [ mơ hồ ] vì đã sử dụng không gian mở, không có tòa nhà nào hiện vượt quá hai tầng [ cần trí